Đọc “The World After Coronavirus”

Tôi vừa đọc được một bài viết hay của Yuval Noah Harari - “The World After Coronavirus” - về thế giới sau cơn đại dịch Corona.  Yuval Noah Harari là tác giả của cuốn sách nổi tiếng Sapiens: A Brief History of Humankind (Lược sử loài người).  Ông là một sử gia, với lối viết sử đặc biệt. 

Harari viết về một thế giới hậu Corona, và những quyết định của chúng ta hôm nay sẽ thay đổi cuộc sống tương lai ra sao.  Ông nói đến quyền con người và quyền riêng tư, đến sự giám sát công dân của chính quyền, đến kết quả và hậu quả của nó hôm nay và tương lai. 

Ông kêu gọi thế giới chung tay đẩy lùi dịch bệnh. 

Khi đại dịch xảy ra, mỗi cá nhân và các chính phủ phải đối mặt với những xung đột, những chọn lựa - chọn lựa giữa một xã hội bị giám sát dưới gọng kìm toàn trị nhưng an toàn, hay tôn trọng quyền công dân nhưng kém an toàn, chọn lựa giữa việc đóng cửa quốc gia để chống dịch, hay chung tay toàn cầu để đẩy lùi đại dịch. 

Khi đại dịch xảy ra, nhiều việc được quyết định nhanh chóng, vì chúng ta không có một lựa chọn khác.  Tiến trình lịch sử sẽ được đẩy nhanh chóng mặt, và những điều tưởng là không thể, như việc đóng cửa hoàn toàn một nền kinh tế hay yêu cầu mọi người ở nhà trong nhiều ngày… giờ đang diễn ra.  Chúng ta học được điều gì từ những kinh nghiệm mới này?  Những quyết định chóng vánh này sẽ ảnh hưởng gì đến tương lai? Chúng giúp gì cho tương lai?

Khi đại dịch xảy ra, nhiều chính phủ sẽ đưa ra những biện pháp mạnh để giám sát công dân.  Công nghệ hiện đại giúp chính quyền dễ dàng làm điều đó. Dựa vào internet và mạng di động, các chính phủ có thể biết được công dân đang làm gì, ở đâu.  Họ sẽ dán nhãn hiệu “vì sự an toàn của công dân” để theo dõi công dân.  

Trong bài, Harari chọn chữ rất hay, over the skin surveillance và under the skin surveillance 

Over the skin surveillance hay tạm dịch là sự giám sát ngoài da, là việc chính phủ giám sát công dân đang ở đâu, xem gì, mua gì qua những hoạt động của họ trên internet — điều mà các công ty công nghệ và chính phủ đang làm.  

Under the skin surveillance hay tạm dịch là sự giám sát dưới da là việc chính phủ giám sát thân nhiệt, huyết áp, nhịp tim (và nhiều thứ khác nữa)  để phát hiện người bệnh, cách ly và phòng chống lây lan.  

Những giám sát này đã và đang xảy ra ở Trung Quốc.  Và việc theo dõi này sẽ còn tiếp tục sau khi đại dịch đã được đẩy lùi.  Nó không chỉ xảy ra ở Trung Quốc. Nó trở thành một công cụ mới của chính quyền. Điều đáng sợ là nó có thể trở thành điều bình thường trong đời sống.  Điều gì sẽ xảy ra khi chính quyền biết được những gì riêng tư nhất của mỗi cá nhân?

Khi đại dịch xảy ra, niềm tin bị thách thức.  Làm thế nào để chúng ta tạo lại niềm tin?  Làm thế nào để chúng ta biết được những con số là thật? Làm thế nào để chúng ta bỏ qua những đấu đá chính trị, loại bỏ những tin tức dối trá tràn lan và tập trung vào những tin tức khoa học có giá trị, vào những dữ liệu thật, những kinh nghiệm thật để chung tay diệt đại dịch. 

Đọc Harari cho chúng ta thấy một cái nhìn xa hơn về tương lai, về những quyền lực và kiểm soát vô hình đang diễn ra. Đó là con dao hai lưỡi.  Nó được dùng để bảo vệ chúng ta, hay để xâm phạm vào những quyền riêng tư nhất?  

Những quốc gia độc tài sẽ siết chặt sự giám sát và xâm phạm quyền riêng tư.  Còn những quốc gia dân chủ thì sao? Tôi vẫn tin "giám sát dưới da" sẽ không xảy ra ở những nước dân chủ, và tôi tin sự trưởng thành trong nhận thức của công dân ở những nước tự do sẽ giúp thế giới tìm được một câu trả lời cho giới hạn của sự an toàn và quyền cá nhân.   Nhưng chúng ta cần Harari, và những tiếng nói  tương tự - đó là bức tường phòng thủ đầu tiên trước khi con người bị tước đi những quyền cơ bản nhất. 

Vào thế kỷ 19, Ignaz Philipp Semmelweis, một bác sĩ người Hungary đã khám phá ra việc rửa tay bằng xà phòng là một thói quen nhỏ của y bác sĩ nhưng có thể cứu sống hàng triệu người.   Ông dùng cả đời mình để truyền bá cho niềm tin đó, và nó cuối cùng được chấp nhận.  Thói quen đó dần dà đi vào đời sống thường nhật của chúng ta.  Sau cơn đại dịch này, liệu sẽ có một số thói quen mới được hình thành?  Và những thói quen mới sẽ giúp gì cho chúng ta trong tương lai? 

Chúng ta sẽ đi qua đại dịch, và sống trong một thế giới tốt hơn.  

---


Bức tường Bá Linh

Hôm nay, 9 tháng 11, 2019 là ngày kỷ niệm 30 năm bức tường Bá Linh (Berlin) sụp đổ.  Đó là cái kết của cuộc Chiến tranh Lạnh. 

Tôi vẫn nhớ rõ những ngày của tháng 11 năm 1989. Lúc đó tôi lên sáu, đêm đêm thích mượn ba tôi chiếc radio ra đứng ở giếng sau vườn, dò nghe chương trình Việt ngữ của đài BBC.  Những ngày tháng đó, tôi say sưa nghe bình luận về sự kiện này, dù hoàn toàn mù mờ về vai trò lịch sử của nó.  Đối với đứa trẻ lên sáu, tất cả chỉ vì sự hiếu kỳ.  Tôi nghe về Berlin như nghe về những sự kiện khác vào thời thơ ấu. 

Nhưng trong ý thức mơ hồ của đứa trẻ lên sáu, tôi cảm nhận rằng đó là một sự kiện trọng đại.  Những ngày, những tháng sau đó, nhiều người bàn tán rằng bức tường Berlin có thể là con cờ đầu trong chuỗi domino kéo sụp khối cộng sản, trong đó có cả Việt Nam.  Đó là những ngày tháng tràn đầy hy vọng đối với nhiều người Việt. 

Đúng như tiên đoán, bức tường Berlin sụp đổ là bước đầu của những đổi thay. Ngay sau đó, toàn bộ khối cộng sản Đông Âu sụp đổ.  Nhưng điều nhiều người Việt mong chờ nhất đã không xảy ra.  Việt Nam vẫn bám vào Trung Quốc và tiếp tục là một nước cộng sản.  Ba mươi năm sau, Việt Nam ra sao sau bước ngoặt lịch sử đó?  Lịch sử thường có nhiều câu hỏi, chỉ riêng chữ “Nếu” thì mãi không có câu trả lời. 

Những gì về Berlin sau 1989 cũng dần phai trong ký ức.  Sau này khi đọc về Berlin, về nước Đức và những điều kỳ diệu cũng như không kỳ diệu sau ngày bức tường đổ, tôi vẫn nhớ rõ những ngày cùng chiếc radio bên chiếc giếng sau vườn nhà. 


Năm 2018, chúng tôi đến Berlin trong chuyến honeymoon - 29 năm sau ngày bức tường đổ.  

Chúng tôi đến Berlin trên chuyến tàu từ Praha, Tiệp Khắc. Trời Berlin đầu tháng 12 mưa, lạnh như cắt.  Buổi tối, chúng tôi ghé vào một tiệm phở của người Việt ở khu trung tâm.  Phở Bắc ngon, quán đông khách; đa số là người Đức trẻ tuổi. 

Berlin của mấy mươi năm sau ngày lịch sử của 1989 đang tràn đầy sức sống, một thành phố hấp dẫn giới trẻ.  Những hoang tàn và dấu tích của Thế chiến, và cái không khí nặng nề u ám của cuộc Chiến tranh Lạnh có thể huỷ diệt cả thế giới của mấy mươi năm trước như không còn.  Điều đó ít nhất đúng với những khách du lịch như chúng tôi.

Chúng tôi ghé thăm đài tưởng niệm bức tường Berlin.  Bức tường giờ đây chỉ còn một đoạn ngắn, nơi được chọn làm đài tưởng niệm.  Phía Tây của bức tường đầy những tranh graffiti. Phía Đông của bức tường là một màu xám xịt.  Đoạn tường của khu tưởng niệm nằm cạnh một nghĩa trang lâu đời của Berlin.  Ngày mưa lạnh mang không khí trầm u của một quá khứ buồn. 

— 

Khi đi thăm khu tưởng niệm tường Berlin, N hỏi một câu rất hay là làm sao họ ngăn được người Đông Đức vượt biên qua Tây Đức với chỉ một bức tường ở Berlin - một bức tường với tổng chiều dài là 155km, trong đó đoạn ngăn Đông và Tây Berlin là 43km? Tôi trả lời qua loa rằng có lẽ họ còn xây thêm nhiều gác canh, và dùng cả một đoạn phân cách - ai tìm cách đào thoát từ Đông sang Tây khi tiến gần bức tường sẽ bị bắn bỏ. 

Câu hỏi đó, đan xen với những câu chuyện khác về một Berlin của Chiến tranh Lạnh trôi đi, rồi chẳng được nhắc lại nữa.  Sau này, khi tìm hiểu thêm tôi mới biết rằng câu giải thích của mình là sai.  Sai vì từ trước đến giờ tôi vẫn nghĩ rằng bức tường Berlin là bức tường ngăn chia Tây Đức và Đông Đức trong Chiến tranh Lạnh.  

Có hai điều sai.  Thứ nhất, bức tường Berlin không chia đôi nước Đức. Nó chỉ chia đôi thành phố Berlin làm hai phần - phần thuộc quyền kiểm soát của Tây phương (Mỹ, Anh, Pháp) và phần thuộc quyền kiểm soát của Liên Xô.  Thứ hai, Berlin không nằm ở biên giới của Tây Đức và Đông Đức - Berlin nằm hoàn toàn trong lãnh thổ của Đông Đức, là phần của Liên Xô. 

Đây là một sai lầm.  Một sai lầm lẽ ra tránh được nếu tôi tìm hiểu cặn kẽ hơn.  Suy cho cùng, tất cả những mù mờ đều bắt nguồn từ sự thờ ơ, cẩu thả và lười biếng. 


Đây là bức tranh rõ hơn về nước Đức, và Berlin sau Đệ nhị Thế chiến. 

Ngày 8 tháng 5, năm 1945, Phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện. Hai tháng sau, tại hội nghị Potsdam, bên thắng cuộc (các nước Đồng minh - Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô) chia nước Đức thành bốn vùng quân sự - Pháp chiếm vùng tây nam, Anh vùng tây bắc, Mỹ ở phía Nam và Liên Xô chiếm phía đông.  Họ chia nước Đức như miếng bánh bốn phần.  


Nước Đức sau Hội nghị Potsdam

Berlin là thành phố nằm hoàn toàn trong lãnh thổ phía đông - dưới quyền kiểm soát của Liên Xô.  Nhưng Berlin là một trường hợp đặc biệt, vì Berlin là thủ đô.  Dù nằm hoàn toàn trong phần của Liên Xô, Berlin lại được chia ra làm bốn phần - như cách quân Đồng Minh chia nước Đức thời hậu chiến. Một miếng bánh nhỏ trong một miếng bánh to.


Berlin trong thời Chiến tranh Lạnh

Bức tường Berlin được dựng nên chia cắt phần phía Tây Berlin với phía Đông Berlin.  Dựng lên ngày 13 tháng 8, 1961 và sụp đổ ngày 9 tháng 11 năm 1989, trong 10,316 ngày chia đôi Đông và Tây Berlin. Khoảng 5000 người tìm cách vượt tường - có khoảng 86 đến 200 người bỏ mình trong hành trình tìm tự do. Người dân Đức gọi đây là “Bức tường ô nhục”

— 

Mỗi năm cứ vào tháng 11, sẽ lại có rất nhiều bài viết về Bá Linh.  Đó là biểu tượng chia cắt Cộng sản và Tư bản, giữa nền độc tài và nền dân chủ tự do.  Đó là biểu tượng của sự hy sinh được lịch sử đánh giá là cao cả của Tây Đức đối với những người anh em phía Đông để lập lại hoà bình và một nước Đức thống nhất.  

Mỗi khi nhắc về Berlin, tôi lại nhớ đến một bức hình rất hay - Bức hình Berlin về đêm được một phi hành gia chụp từ không gian năm 2013, mấy mươi năm sau khi bức tường sụp đổ. Từ không gian, trong đêm, vẫn còn đó lằn ranh chia đôi Đông Berlin và Tây Berlin - Đông Berlin một màu của đèn vàng và Tây Berlin với màu sáng trắng của đèn LED. 


Berlin từ không gian, 2013 - Bức ảnh của phi hành gia người Canada, Chris Hadfield

Nhiều năm sau nữa, lịch sử vẫn sẽ nhắc đến Berlin và những chia rẽ vô hình của một nước Đức sau ngày tường đổ - về những khác biệt chưa lấp đầy sau ngày thống nhất, về sự chênh lệch giàu nghèo của hai miền Tây Đông.  Lịch sử cũng sẽ nói đến nó như một vếch nhơ của nhân loại trong thế kỷ 20, mà nó là một biểu tượng.  Và người ta sẽ nhắc đến nó như một chiến thắng vĩ đại của phương Tây, của tự do, và của quyền con người.  

Và khi nhắc đến Berlin, là người Việt, đôi khi ta lại tiếc nuối và nghĩ về một chữ Nếu to tướng. 
 






 

Một bài thơ hay của Đặng Ca Việt

Hôm nay đọc được một bài thơ hay. Thơ Đặng Ca Việt. Một sáng sớm ở New York.

*****

Ta về làm khách

Ta về làm khách cha ta

Người tóc bạc lại hầu trà tóc xanh
Bếp nghèo khói lượn vòng quanh

Mà loay hoay nấu nồi canh cá đồng

Một chiều có cả mùa đông

Tiếng cười như thể có dòng lệ pha.

Ta về làm khách quê ta

Xoài chưa đâm nụ cam da chưa vàng

Nhãn lồng còn đợi mùa sang

Lúa vừa gieo hạt cả làng đi vay

Em ta dăm đứa héo gầy

Nước vừa mới rút bàn tay còn bùn

Quà quê chỉ có nỗi buồn

Đem theo mà gối đầu giường đêm xa…

Ta về làm khách bạn ta

Thằng thất chí, đứa chưa qua cuộc tình

Rượu vào đốt thuốc lặng thinh

Bốn mươi tuổi tránh mắt nhìn tận nhau

Bắt tay là biết nghèo giàu

Xòe tay mà hỏi phận cao số hèn. 

Ta về làm khách sông Tiền

Nơi ta lội tắm đầu tiên trong đời

Nước xanh nước đỏ lở bồi

Nước về biển chở mồ hôi đồng bằng

Ta ngồi chờ chuyến đò ngang

Tự ta làm khách tiễn bàn chân ta.


Nhà thờ Đức Bà Paris

Tác phẩm nổi tiếng nhất của đại văn hào Pháp Victor Hugo là Nhà Thờ Đức Bà Paris.

Lễ Đăng quang Hoàng đế của Napoleon Bonaparte ngày 2 tháng Mười hai năm 1804 - Địa điểm: Nhà thờ Đức Bà Paris. 

Mốc cây số 0 (Km 0) của Paris - Địa điểm: Nhà thờ Đức Bà Paris. 

1909, Giáo hoàng Pius X phong thánh cho nữ thánh Joan de Arc.  Địa điểm: Nhà thờ Đức Bà Paris. 

Bao nhiêu đó đủ để nói rằng Paris là Notre Dame, và Notre Dame là Paris. Nhà thờ Đức Bà Paris là biểu tượng lịch sử của Paris, là một trong những công trình kiến trúc Gothic vĩ đại nhất của Châu Âu.  

Hôm nay Nhà thờ Đức Bà Paris bị hoả hoạn.  Gần như toàn bộ mái nhà thờ cháy rụi.  Hai ngọn tháp và cấu trúc chính được cứu nhưng dàn mái gỗ hơn 800 năm giờ là đống tro tàng.  

Một công trình kiến trúc cổ kính và kỹ thuật vĩ đại giữa lòng Paris bị hoả hoạn tiêu huỷ khiến ai yêu mến Paris đều xót xa.  Một công trình đã trải qua hơn 850 năm của lịch sử, qua bao biến thiên của thời cuộc, đã chứng kiến những giây phút huy hoàng và điêu tàn nhất của Paris và Châu Âu, mà giờ đây thất thủ trước ngọn lửa để hiểu được rằng không gì qua được Định mệnh.

Người Pháp có niềm tin mạnh mẽ vào tình yêu, và những giá trị nghệ thuật vĩnh cửu. Rồi đây Paris sẽ xây lại Notre Dame, như họ đã từng làm sau những tai hoạ trong quá khứ — Rồi đây Paris sẽ lại đẹp, sẽ lại huy hoàng lộng lẫy. Và rồi, vụ hoả hoạn hôm nay sẽ được ghi lại như một trong những chuỗi sự kiện trọng đại trong lịch sử thăng trầm của Nhà thờ Đức Bà, của Paris.   Nhưng hôm nay, ta cứ hãy tiếc cho một phần linh thiêng nhất của Paris đã bay mãi theo đống tro tàng. 

(Ảnh chụp Notre Dame một đêm hè 2011)